Thắng Pháp - Bài 4 Tâm Bất Thiện - Tâm Tham.
Bài học hôm nay là bài 4,Tâm Bất Thiện. Được nghe từ băng giảng của HT Chánh Minh và tóm tắt theo sự hiểu biết của chính mình, Minh Hạnh xin chia sẻ.
Minh Hạnh ghi chép
HT Chánh Minh: Bài học hôm nay chúng ta tìm hiểu về tâm bất thiện.
Trong Dục-giới có tất cả 54 tâm trong đó có, 12 tâm bất thiện, 18 tâm vô nhân, 24 tâm tốt đẹp.
Ngài Anuruddha đã sắp trình tự từ tâm bất thiện đến tâm vô nhân rồi đến tâm thiện hay tâm tốt đẹp.
Có câu hỏi rằng: Vì sao trong Mẫu Đề Tam, Đức Thế Tôn Ngài thuyết giảng;
- Kusalā Dhammā - tất cả pháp thiện,
- Akusalā Dhammā - tất cả pháp bất thiện
- Abyākatā Dhammā - tất cả pháp vô ký.
Mà giáo trình của Ngài Anuruddha lại đưa tâm bất thiện lên trước.
Để trả lời câu hỏi này chúng ta cần phải quan tâm như vầy:
Đức Thế Tôn là bậc thiện thuyết, cho nên Ngài dẫn một pháp nào đó người nghe đã nắm bắt được, rồi từ đó Ngài mới dẫn thính chúng tìm hiểu sâu vào những điều chưa biết và, cuối cùng dẫn tới những pháp quán.
Thông thường, Chư Thiên là dạng chúng sanh yêu thích điều thiện, vì khi những vị Chư Thiên tái sinh về cõi trời Đao Lợi chẳng hạn, những vị Thiên nhân đó giống như một người ngủ say chợt tỉnh giấc thấy mình ở trong Thiên cung hoặc ở một khung trời xinh đẹp đặc biệt, giây phút ngạc nhiên nhiên đi qua vị đó mới ngẫm nghĩ trở lại, gọi là quán xét, thấy sở dĩ mình sanh lên cõi an vui tốt đẹp này bởi do thiện nghiệp mình đã tạo khi còn là người nhân loại, nhờ nghiệp lành đó cho quả phước an vui nên tái sanh về cảnh này, cho nên những Chư Thiên thường ưa thích pháp thiện.
Do đó, khi thuyết giảng cho Chư Thiên Đức Thế Tôn Ngài nêu pháp thiện trước tiên, Kusalā Dhammā - tất cả pháp thiện, rồi Ngài mới dẫn dắt tới.
Nếu đã có một pháp thiện thì tất nhiên có pháp bất thiện, nên Ngài thuyết tiếp, Akusalā Dhammā - tất cả pháp bất thiện.
Nhưng, có một loại pháp khác vượt lên trên thiện và bất thiện, Đức Phật Ngài thuyết giảng tiếp, Abyākatā Dhammā - tất cả pháp vô ký.
Ngài Anuruddha cũng theo phương thức đó, Ngài thấy chúng sanh cõi nhân loại biết rành các ác pháp nhiều hơn, thiện pháp người nhân loại có thì dễ bị cản trở bởi ác pháp.
Đức Thế Tôn Ngài thuyết giảng ở trong kinh Pháp Cú:
- Hãy gấp rút làm việc thiện, nếu chậm trễ tâm sẽ rơi vào điều ác ngay.
Khi tâm thiện vừa khởi lên hãy gấp rút làm việc thiện ấy, nếu chần chờ tâm sẽ rơi vào điều ác ngay, cho nên Ngài Anuruddha nêu tâm bất thiện trước, đây là lý do thứ nhất.
Lý do thứ hai, sau khi nêu lên tâm bất thiện, Ngài Anuruddha nêu lên tâm vô nhân, tại sao? Đức Thế Tôn sau khi nêu lên tâm thiện xong, kế tiếp, Đức Thế Tôn nêu lên tâm bất thiện, nếu có đảo chăng thì Ngài Anuruddha sẽ đưa ra tâm bất thiện trước rồi tới tâm thiện, tại sao Ngài Anuruddha lại nêu lên tâm vô ký?
Bởi vì người nhân loại rất sợ quả xấu và thích hưởng quả lạc, khi có những ác quả xấu lúc đó mới sợ nhưng rất thích thú hưởng quả an lạc và, quả là điều cận kề với tâm của người nhân loại, cho nên sau khi đưa ra tâm bất thiện xong thì Ngài Anuruddha dẫn tới quả tức là những tâm quả bất thiện, sau khi dẫn tới tâm quả bất thiện để làm rúng động tâm của những người có trí Ngài Anuruddha lại nêu lên những tâm quả thiện, bởi vì chúng sanh rất thích quả thiện, từ quả thiện đó Ngài Anuruddha mới đưa tiếp những tâm tốt đẹp, bởi những tâm tốt đẹp đó mới cho kết quả tốt đẹp.
Đó là cách lý giải với câu hỏi tại sao Ngài Anuruddha lại đưa lên tâm bất thiện trước tiên, trong khi bộ Mẫu Đề Tam Đức Thế Tôn Ngài thuyết giảng pháp thiện trước tiên.
Hôm nay, chúng ta học tâm Bất-thiện, gồm có tất cả 12 tâm bao gồm:
- 8 tâm tham,
- 2 tâm sân và
- 2 tâm si.
Trước tiên, chúng ta tìm hiểu chữ bất thiện (akusalā),
Chữ a = nghĩa là không có.
Chữ kusalā = là thiện
a + kusalā = akusalā là bất thiện.
Từ ngữ kusalā được các vị giáo thọ sư giải thích rất nhiều, chúng ta chỉ cần nắm bắt một hay hai cách thức mà thôi;
1 - Cách phân tích thứ nhất, chữ kusa hay kusalā trước tiên bằng chữ kusa + chữ lā.
Kusa là tên một loại cỏ, hai bên lá cỏ rất bén có thể làm tay chảy máu nếu sơ ý, tương tự như loại lá của cây lúa. Thì chữ kusa gọi là thiện vì nó cắt đứt được 2 điều, 1 là ác pháp, 2 là bất thiện pháp, cho nên chữ kusalā gọi là thiện.
2 - Cách phân tích thứ hai, KUSALA = KU + với căn SAL . SAL là cắt đứt, KU là điều xấu điều tội lỗi. KUSALA là cắt đức đi điều xấu, điều tội lỗi, là thiện.
3 - Cách phân tích thứ ba, từ chữ ku là xấu xa KU + căn SU = KUSA + căn LA = KUSALA. Căn la là cắt đứt, cắt đứt xấu xa để trở thành tốt đẹp, chữ SU có nghĩa là tốt đẹp. Cắt đứt điều xấu để trở thành tốt đẹp, được gọi là thiện.
4 - Và cách phân tích thứ tư, cắt đứt những điều xấu xa bằng trí tuệ được gọi là thiện, nhưng mà đây là tột cùng là thiện xảo cho ra chữ KUSALA là thiện xảo.
Như vậy chúng ta tìm hiểu chữ KUSALA, thì bất thiện là ngược lại với điều thiện, có nghĩa là bất thiện thì không cắt đứt được hai pháp ác pháp và bất thiện, hoặc đã là bất thiện thì không thể cắt đứt những xấu. Hoặc là bất thiện là không thể diệt trừ điều xấu để trở thành tốt đẹp.
Đó là chúng ta giải theo từ.
Bây giờ giải theo lý. Từ vựng kusalā có 5 nghĩa:
1- Thứ nhất, pháp gọi là thiện ý nghĩa thứ nhất là vô bệnh.
Đức Phật Ngài dạy "vô bệnh lợi tối thắng". Người không bệnh là người có sức mạnh. Có nghĩa những tâm thuộc về thiện có khả năng dẫn chúng sanh chứng đắc thiền định tiến tới đạo quả, bởi vì nó có sức mạnh. Như vậy, bất thiện nghĩa là bệnh hoạn, người có bệnh hay người đau yếu tầm cầu thì không thể làm những việc theo ý mình muốn, không thể làm những việc được xem là tốt đẹp.
Như vậy, lý thứ nhất bất thiện có nghĩa là bệnh hoạn, ngược lại với khỏe mạnh của thiện.
2- Thứ 2, nói về thiện thì nó có trạng thái tốt đẹp.
Chư Thiên lẫn nhân loại đều yêu thích việc thiện, ngược lại bất thiện là xấu xa. Nhân loại và Chư Thiên khi thấy người nào làm việc xấu xa làm việc bất thiện thì không hài lòng và sẵn sàng khiển trách hoặc chê bai.
3 - Thứ 3, chữ thiện có nghĩa là vô tội.
Tức là khi thực hiện những việc thiện thì không có lỗi lầm, cung kỉnh đảnh lễ không phải là lỗi lầm, phục vụ tha nhân không phải là lỗi lầm, trì giới không phải là lỗi lầm, bố thí cúng dường không phải là lỗi lầm. Như vậy, bất thiện ngược lại với thiện, thiện là không lầm lỗi thì bất thiện là lầm lỗi, không bố thí đó chính là tâm bỏn xẻn keo kiệt, không trì giới nghĩa tâm này không tin vào nhân quả, không cung kỉnh nghĩa là tâm này cứng rắn, không phục vụ là không có tâm từ bi v.v...
4 - Thứ 4 của chữ thiện là khôn khéo.
Tức là thiện này được dẫn dắt bằng trí cho nên nó trở nên khôn khéo, mà trí là bảo vật cả người nam lẫn người nữ đều ưa thích. Người có trí sống trên đời thì dễ dàng thành công, người không trí sẽ gặp nhiều thất bại lẫn đau khổ. Cho nên ý nghĩa khôn khéo muốn chỉ những tâm thiện có trí, ý nghĩa chánh của thiện ở đây muốn chỉ điểm này, thì ngược lại là bất thiện có nghĩa là không khôn khéo, tức là muội lượt mê si.
Những tâm bất thiện nào sanh lên không thấy nhân quả, chỉ thấy cái lợi trước mắt mà quên cái hại trong tương lai. Hình ảnh này được Đức Phật Ngài đưa ra một ví dụ:
Có một người bị 6 tên cướp rượt chạy, người đó rớt xuống hố, tình cờ chụp được sợi giây leo người đó bám vào sợ giây leo, nhìn xuống phía dưới thấy những con rồng lửa đang phun lửa lên, ở trên thì 6 tên cướp đang rượt người này chỉ còn bám vào sợ giây leo đó để tạm thời lánh nạn, thì chợt có hai con chuột đen và trắng từ trong hang chạy ra ngặm sợi giây đó, người này kinh hoàng, và khi sợi giây rung lên làm lay động tổ ong ở cành cây trên đầu người đó và, bấy giờ những giọt mật từ trong tổ ong đó nhỏ xuống, người này nếm được những giọt mật từ tổ ong đó thích thú say mê và, chờ đợi những giọt mật rớt xuống mà quên hai con chuột đen và trắng đang cắn sợi giây.
Ý nghĩa này được giải thích như sau:
Sáu tên cướp ví như là lục trần; mắt, tai, lưỡi, thân, và ý + với sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, rượt đuổi người này, rượt đuổi những chúng sanh muốn thoát ra khỏi khổ.
Người này rớt xuống hố, nhìn xuống dưới là những con rồng đang phun lửa chỉ cho tam giới này như hỏa trạch, hoặc là ví như những khổ cảnh trong tương lai.
Hai con chuột đen và trắng ví như ngày và đêm.
Sợi giây người đó bám vô, ví như tuổi thọ. Hai con chuột đen trắng là ngày và đêm đang nuốt dần sợi giây tuổi thọ.
Nhưng người này lại thích thú những giọt mật quên đi hiểm họa tuổi thọ sắp chấm dứt.
Đức Phật Ngài đưa ra hình ảnh đó cho chúng ta thấy; vì không khôn khéo cho nên con người rơi vào bất thiện hay những tâm bất thiện bị si mê bị muội lượt, chỉ thấy lợi trước mắt quên hậu quả trong tương lai.
Trong bản kinh Bổn Sanh hoặc bản kinh Pháp Cú cho chúng ta thấy: Thanh niên Mahà Kàla trong kiếp này thực hành thọ trì bát quan trai giới rất trong sạch đắ quả Dự lưu. Một lần nọ có vài tên trộm sau khi trộm đồ, khua vang đồ đạc làm chủ nhà thức dậy rượt đuổi. Chúng ném hết của đã lấy rồi phân tán mạnh ai nấy chạy. Một tên lọt vào tinh xá vào lúc sáng sớm, ném món đồ trước mặt Mahà Kàla đang rửa mặt bên bờ ao, rồi chạy mất. Chủ nhà chẳng thấy tên trộm đâu, chỉ thấy cư sĩ với tang vật, nghi Mahà Kàla là người trộm đồ nên đánh chết.
Chư Tỳ-kheo bàn luận nhau ở trong giảng đường: Người cận sự nam nay quá tốt đẹp, cái chết này không xứng đáng với vị này.
Đức Thế Tôn Ngài nghe như vậy, Ngài giải thích rằng:
- Quả đúng như vậy, này các Tỳ-kheo! Cái chết của Mahà Kàla không chính đáng nếu chỉ xét kiếp hiện tại này. Nhưng so với các nghiệp ác đã gây ở kiếp trước thì không oan uổng.
Và Ngài kể chuyện quá khứ : Trong quá khứ chỉ vì say mê nhan sắc vợ của người lính hộ tống khách qua rừng. Ông quan đó, hay là tiền thân của Mahà Kàla, vị quan này đã vu khống cho người chồng là trộm ngọc, rồi đánh chết người chồng để cướp đoạt người vợ của người lính hộ tống khách qua rừng đó.
Trong hiện tại do việc làm bất thiện từ quá khứ, trong quá khứ Mahà Kàla làm việc bất thiện mà không nghĩ tới nhân quả, không thấy những tai hại trong tương lai, cho nên trong hiện tại này quả còn dư xót, tức là trả quả thời gian dài dưới khổ cảnh rồi may mắn được tái sanh làm người nhưng với quả còn dư xót đó mặc dù trong hiện tại này trong thời Đức Phật ông là một cư sĩ rất thuần thành rất tốt đẹp nhưng vẫn bị quả trổ và bị đánh chết như khi xưa ông đã đánh chết người lính hộ tống khách qua rừng để chiếm đoạt người vợ.
Bởi vì tâm bất thiện sanh lên không được khôn khéo.
5. Thứ năm của chữ thiện là cho quả an vui, ngược lại, tâm bất thiện sẽ cho quả khổ hoặc là quả xấu.
Chúng ta vừa tìm hiểu sơ bộ về tâm bất thiện. Bây giờ bước qua phần thứ hai, tâm bất thiện được chia ra 3 loại:
1. Tham.
2. Sân.
3. Si.
Khi định nghĩa thâm, sân, và si, chúng ta phải ngầm hiểu chỉ ra tâm sở mạnh nhất ở trong tâm đó. Chúng tôi từng giải thích tâm ví như nước tinh khiết, nhưng khi nhuộm với cafe thì nó mang tên nước cafe mặc dù trong nước cafe đó có đường nhưng người ta vẫn gọi là nước cafe, hoặc giả nước pha trà thì nước đó được gọi là nước trà, mặc dù trong nước trà có thể có mùi hương của hoa lài hoặc mùi hương của hoa sen v.v.. bởi vì nước trà là chủ yếu, bởi vì cafe là chủ yếu.
Như thế nào cũng vậy, Khi gọi tâm tham, tâm sân, tâm si, là mình gọi tên theo những tâm sở mạnh nhất đang có mặt ở trong tâm đạo.
Vậy thế nào là tâm tham? Được gọi là tâm tham là khi dính mắc tới cảnh hay đối tượng. Điển hình, các Ngài ví dụ tâm tham giống như thỏi nam châm hút sắc, nam châm hút được sắc rồi thì không muốn buông thanh sắc đó ra.
Như thế nào cũng vậy, khi tâm đã nhận được cảnh rồi thì không muốn xa lìa cảnh đó.
Thí dụ thứ nhất, như một người dùng thực phẩm hạp khẩu vị của một quán ăn nào đó ra về vẫn còn nhớ quán đó nhớ món ăn đó và, khi nhớ món đó vẫn còn cảm thấy muốn ăn nữa, trạng thái đó là dính mắc.
Ví dụ thứ hai, một cậu nào đó sau khi tiếp xúc nói chuyện với một người nữ, sau khi trở về thì vương vấn, đó là tâm tham.
Trong tâm tham này các ngài ví dụ thỏi nam châm và thanh sắc theo hai cách; một như thanh sắt quá mạnh thì thỏi nam châm sẽ chạy tới thanh sắt đó, hoặc nếu thỏi nam châm có sức hút mạnh thì thanh sắc chạy tới dính vào thỏi nam châm.
Như thế nào cũng vậy, khi cảnh có lực mạnh thì tâm chạy dính vào cảnh, khi tâm có sức mạnh thì cảnh đến với tâm (các vị nên lưu ý điểm này) khi cảnh mạnh thì tâm sẽ chạy tới cảnh đó.
Một thí dụ trong Trường Bộ, kinh Đế Thích Sở Vấn Thiên Tử âm nhạc là Pancasikha vì thương yêu nàng Thiên nữ tên là Bhaddà với biệt hiệu Suriya Vaccasà, đêm đêm chàng nhạc sĩ này mang cây đàn cầm bằng gỗ vàng Beluva của mình tới dưới chân lâu đài của nàng thiên nữ tên là Bhaddà với biệt hiệu Suriya Vaccasà hát lên bài ca tỏ tình, thì nàng Thiên nữ tên là Bhaddà với biệt hiệu Suriya Vaccasà là cảnh, cảnh này quá mạnh cho nên tâm của chàng nhạc sĩ Pancasikha này chạy tới đó để bày tỏ nỗi lòng.
Trường hợp thứ hai, tâm quá mạnh cho nên cảnh kia chạy tới, trường hợp này, ví như một người thương mến một người nào đó đi xa vạn dặm vẫn nhớ về người đó, nên gửi thơ về người đó và nghĩ tới người đó, giờ tâm này quá mạnh nên cảnh kia đi tới, thí dụ như người này đi xa rồi bày tỏ nỗi lòng của mình tới người kia thì nỗi lòng mình chính là cảnh mà tâm này là tâm ái cho nên cảnh kia xuất hiện, đó là hai trường hợp.
Nói cách khác, bao giờ còn dính mắc vào cảnh thì bấy giờ thuộc về tham, và trong tham này có hai loại, một loại hiển lộ rõ ràng và một loại vi tế.
Loại hiển lộ rõ ràng thuộc về; sắc, thinh, hương, vị, xúc, khả ái, khả lạc, khả hỉ, tức là; sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm, vị ngon, thân đụng chạm xúc lạc, những cảnh đó thu hút tâm làm cho tâm tham thích thú không có thì đi tìm, có rồi thụ hưởng rồi vẫn còn nhung nhớ, không quên lãng, đó là sự hiển lộ.
Còn loại chìm ẩn, đó là những pháp liên hệ tới; sắc, thinh, hương, vị, xúc, mang tính chất tốt đẹp, thí dụ, người làm việc phước nghĩ tới kiếp sau mình sẽ có nhiều tài sản, có được danh tiếng, có được uy quyền, có được những an vui vật chất, thì cái tham này chìm ẩn trong đó.
Đức Phật Ngài dạy chúng ta khi tham sanh lên biết tham sanh lên (trong bài kinh Tứ Niệm Xứ) nó không phải là; sắc, thinh, hương, vị, xúc, nữa nó là pháp khả lạc, khả hỉ, khả ái. Như khi chứng đắc những pháp thiền định mà thích thú với pháp thiền định thì là có tham trong đó, khi làm việc phước mà còn mơ ước trong tương lai được thọ hưởng quả phước thì đó là tâm tham, tham này là tham vi tế nhẹ nhàng hơn loại tham hiển lộ.
Trong Tương Ung Kinh Đức Phật dạy rằng: "Này Chư Tỳ Khưu, ai mà hoan hỉ pháp nào thì bị ma trói buột".
Cho nên, chúng ta nắm bắt được ý nghĩa trạng thái tham là dính vào đối tượng không thể buông ra, thì khi làm những việc phước chúng ta ngăn chặn không cho tham sanh khởi trong tư tưởng. Khi đã biết rõ nhân quả chắc chắn chúng ta hưởng không cần gì phải mơ ước, quả sẽ tới, tới như bóng không rời hình, bao giờ còn danh sắc này thì quả thiện sẽ theo sát danh sắc này như bóng không rời hình (Đức Phật dạy câu đó trong kệ Pháp Cú) không cần mơ ước là để ngăn chặn cái tham vi tế.
Thế nào là tâm sân?
Tâm sân từ chữ DOSA, từ ngữ căn DUS nghĩa là không hài lòng, bất toại ý, khó chịu. Cái nào khó chịu, cái nào không hài lòng thì chúng ta hiểu biết rằng nó là biểu hiện của tâm sân. Tâm sân không hẳn phải là bừng bừng lửa giận, tâm sân không hẳn là phải la hét phải mắng phải chửi, đó là loại sân thô thiển.
Một loại sân khác làm cho tâm khó chịu, tâm không hài lòng, thí dụ, một buổi chiều nào đó nhìn thấy trời chiều lảng vảng bóng hoàng hôn, thấy mây trôi bay về muôn hướng cảm thấy hơi buồn buồn, đó là tâm sân. Không cần phải nổi giận mới là tâm sân. Hoặc là, ngồi ngẫm nghĩ thân phận mình cảm thấy buồn buồn, đó là tâm sân.
Chúng ta hiểu, biết được như vậy, thì khi chúng ta khởi lên một sự khó chịu sự bất bình nào đó thì biết đó là loại bất thiện sẽ cho quả xấu hoặc cho quả khổ, thì mình ghi nhận nó không cho nó khởi lên. Giận mà ầm ầm lên thì chuyện rõ ràng, nhưng chỉ buồn buồn cũng là tâm sân, bởi vì nó từ căn DUS nghĩa là không hài lòng, khó chịu.
Như thế nào gọi là tâm si?
Tâm si từ ngữ căn là MOHA, có nghĩa là mê muội, là che lấp, là ngăn chận. Ý nghĩa trước tiên tâm si là mê muội giống như hình ảnh người đi trong đêm tối không thấy đường đi, như người ở trong rừng đi trong đêm tối không thấy đường đi người đó có thể đi lạc, có thể rơi vào những cảm bẫy, những cái hố v.v... Thì ý nghĩa chữ căn moha này là mê muội.
Ý nghĩa thứ hai của ngữ căn MOHA này là ngăn che cái khổ để người ta lầm lẫn khổ đó là lạc, ngăn che nguyên nhân sanh khổ. Một số người trong thế gian này khi có được điều an lạc thì gọi là hên hay là may mắn, khi gặp điều bất lạc khởi lên nói là xui quá, chẳng hạn như vậy, thì khi nói lên những từ như vậy đó là trạng thái của tâm si bởi nó ngăn che nhân quả để cho không thấy nhân quả. Thật sự không có gì hên hay sui, một người bị bịnh đi gặp bác sĩ trị cho hết bịnh nói "hên quá tôi gặp bác sĩ giỏi chữa hết bịnh" còn chẳng may gặp ông thầy lang băm uống thuốc càng ngày càng bịnh thêm, thì nói "xui quá gặp ông thầy lang băm". Thì trạng thái như vậy hiểu như vậy là tâm si, bởi vì nó che lấp nhân quả, thật sự không có hên và không có xui, thật sự chỉ có quả thiện hay quả bất thiện, người may mắn gặp được thầy thuốc giỏi uống đúng liều thuốc hết bịnh, không phải là hên mà là quả thiện trổ, còn gặp một vị thầy lang vườn uống thuốc càng ngày càng bịnh thêm đó là quả xấu trổ, không có xui trong đó không có hên trong đó mà chỉ có nhân quả nhưng bị si chận lại không cho thấy nhân quả.
Ngữ căn MOHA còn ý nghĩ nữa là che lấp, che lấp con đường thoát ra khỏi luân hồi, tức là Niết-bàn, nó không trực tiếp trong tâm nhưng nó lại làm cho tâm của người rơi vào lầm lạc.
Có một thí dụ như vầy: Một người muốn băng qua rừng để đến một thành phố xinh đẹp vui tươi, và chỉ có một con đường độc nhất để băng qua rừng, nhưng trong rừng này có một nhóm dạ xoa, khi người này đang đi trên con đường xuyên qua rừng thì nhóm dạ xoa này hoá hiện ra những kinh thành xinh đẹp đầy hoa thơm cỏ lạ, người muốn băng qua rừng thấy những kinh thành xinh đẹp có những con đường đầy hoa thơm cỏ lạ nghĩ đây là thành phố an toàn cho nên từ bỏ con đường chánh mà hướng về kinh thành xinh đẹp, hướng về nơi có đầy hoa thơm cỏ lạ và khi người đó đi tới thì bị nhóm dạ xoa bắt ăn thịt.
Thí dụ này như thế nào: khu rừng tượng trưng cho phiền não, vượt khỏi khu rừng tức là lìa bỏ phiền não, đến thành phố xinh đẹp an toàn ví như Niết-bàn, con đường xuyên qua rừng duy nhất ví như Bát Chánh Đạo, trên con đường đi đó nhóm dạ xoa ví như những phiền não chướng, những kinh thành xinh đẹp và những hoa thơm cỏ lạ ví như những cảnh an lạc hay là những sự an lạc ở trong thế gian, khu rừng ví như thế gian, người đó từ bỏ con đường chánh để quay lại hướng tới những kinh thành đó với những vườn kỳ hoa dị thảo thì người đó bị dạ xoa hại, dạ xoa chính là vô thường, hay là cái khổ sinh tử luân hồi. Vô minh, vô minh ví như những nhóm dạ xoa hoá ra kinh thành tốt đẹp để ngăn che, che lấp con đường thoát ra khỏi rừng, thoát ra khỏi sinh tử luân hồi. Ý nghĩa tâm si là như vậy.
Bây giờ sau khi chúng ta thấy được ý nghĩa của:
- tâm tham là dính mắc,
- tâm sân là khó chịu, muốn hủy diệt đối tượng,
- tâm si là trạng thái ngăn che, che lấp, mê muội.
Chúng ta nắm tổng quát như vậy.
Bây giờ chúng ta đi vào chi tiết.
Tâm tham có 8 tâm.
Tâm sân có 2 tâm.
Tâm si có 2 tâm.
Tổng cộng là 12 tâm.
Tám tâm tham này được chia ra làm 2 loại, hay là, tâm tham được phân tích thành hai cách, có những loại dính mắc với trạng thái thích thú, gọi là thọ hỉ, loại thứ hai cũng dính mắc nhưng với tư cách thản nhiên, gọi là thọ xả.
Thí dụ:
- Một người đang khát nước đi tới nhà người bạn và người bạn đó biết bạn mình đang khát nước nên mang một ly nước cam vắt ra mời, đang khát nước được cam vắt người này thích thú uống ngay ly nước cam vắt, đó là một loại tâm tham nhưng với trạng thái vui thích nên gọi là tâm tham thọ hỉ.
- Tâm tham thọ xả là thản nhiên, tức là thọ dụng vật đó với tâm thản nhiên. Thí dụ, một người quen hút thuốc lá, gặp người bạn mời hút thuốc lá, lúc đó cũng đang thèm hút, người đó đưa tay lấy điếu thuốc với tâm không vui không buồn, mà thản nhiên, thì tâm tham này cũng dính mắc nhưng với sự thản nhiên gọi là tâm tham thọ xả.
Nếu tâm tham phân làm hai cách như vậy, một là thọ hỉ tức là dính mắc đối tượng với trạng thái vui thích, và hai là dính mắc đối tượng với trạng thái thọ xả.
Hoặc giả, chúng ta có một thí dụ như vầy, một bà mẹ đi chợ về đứa con ở nhà trông đợi mẹ, khi bà mẹ đi về cho đứa con món quà, gói bánh gói kẹo, đứa con thích thú mừng rỡ, đây là loại tâm tham thọ hỉ. Cũng đứa bé đó nhưng khi bà mẹ về cho nó món vật thực hay một món đồ chơi nó thản nhiên lấy, vì nó quá quen. Hoặc giả, vào mỗi buổi sáng đứa bé đi học được cha mẹ cho một số tiền để ăn quà, khi trời sáng chuẩn bị đi học mẹ cho nó một số tiền để ăn quà sáng, nó thản nhiên cầm lấy, đó là tâm tham thọ xả, giả xử rằng bữa nào đó bà mẹ không cho tiền ăn quà, nó sẽ không chịu đi học, hoặc nó làm cách nào để có được số tiền đó, nhưng khi có thì lấy thản nhiên, đó là tâm tham thọ xả.
Như vậy, chúng ta thấy tâm tham có hai cách như vậy, một thọ hỉ, một thọ xả.
Trong tâm tham thọ hỉ hay thọ xả đó có một cách nữa là hiểu sai và một cách nữa không hiểu sai.
Cách hiểu sai có nghĩa là, nghĩ rằng sự sống trên đời này "mạnh được yếu thua", nên cướp đoạt tài sản người khác là định luật cuộc đời, mạnh được yếu thua, không có tội lỗi gì hết.
Hoặc giả, trộm cắp tài sản của người khác rồi nói ai bảo ông hơ hỏng làm chi để tôi lấy, tại ông không phải tại tôi, đó là hiểu sai, đó là tà kiến, là thấy sai hiểu sai, không thấy rằng mình lấy của người ta. Chính thật sự là mình lấy của mình, chẳng những mình lấy của mình, rồi phải chi của mình thì mình tiêu sài trong phạm vi đó thôi, nhưng cái này mình lấy của mình rồi mình phải mang nợ vì cái lấy của mình, mình không thấy điều đó, bởi vì không khôn khéo, đó là hiểu sai. Như một người trộm cắp của người ta một vật gì đó cho rằng mình được hạnh phúc nhưng biết đâu về sau phải trả lại gấp 10, gấp 100 lần cái mình đã trộm cắp, hôm nay lấy 100 ngàn về sau có thể phải trả lại 1 triệu, 2 triệu, 3 triệu không chừng, thì rõ ràng là mình lấy tiền của mình sài không phải mình lấy tiền của người khác, nhưng tiền của mình sài còn nhẹ, còn cái này mình phá hủy, lấy tiền của mình phá hủy luôn tài sản của mình, mà cho rằng mình lấy trộm không có tội lỗi trong đó, vì "trên đời này mạnh được yếu thua", hoặc giả là một người lừa đảo người khác lấy số tiền cho rằng mình khôn ngoan, mình giỏi, mình mưu mẹo, mình có trí, mình lừa được người ta, đó là thấy sai, thuộc về tà kiến.
Còn loại tâm tham không thấy sai hiểu sai mà nó vẫn thích thú, thí dụ đang đói bụng có người nào đó mời ăn cơm, mời món ngon vật lạ, tâm thích thú ăn món ăn đó, không có gì sái quấy cả, người ta mời thì mình ăn, của được cho, không có gì sái quấy cả, nhưng nó cũng là tâm tham thọ hỉ. Loại tâm tham thứ nhất là tâm tham hợp với tà kiến, hay là hoà hợp với sự thấy sai hiểu sai, tâm tham thọ hỉ hợp tà kiến.
Loại tâm tham thứ hai cũng là tâm tham thọ hỉ không sái quấy tức là ly tà, như vậy trong loại tâm tham thọ hỉ chúng ta phân tích thêm một loại là tham mà sái quấy, còn một loại tham không sái quấy.
Để rõ nghĩa hơn, chúng tôi cho qúi vị thêm một thí dụ nữa.
Có một Phật tử sau khi đảnh lễ vị sa-môn xong, nói "bạch Ngài con xin cúng dường Ngài 100 triệu", vị sa-môn đó vui nói: "sadhu sadhu", vui với món tiền 100 triệu, đó là tâm tham dính mắc, đây là tâm tham thọ hỉ ly tà, nhưng không có gì sái quấy.
Một trường hợp khác: Một vị sa-môn thấy một vị đại thí chủ tới mới nói ướm thế này, nói dò thế kia, để có được một số tài vật, mà cho rằng mình không sai. Thì trường hợp này là tâm tham thọ hỉ nhưng có sự sai quấy, bởi vì thuộc về tà mạn, chúng ta nên nắm bắt điều đó, tà kiến không có gì đáng sợ hết, nghe nói tà kiến thì mình bị dị ứng, tà kiến chẳng qua thấy sai hiểu sai mà thôi.
Chúng ta đã phân tích tâm tham có hai loại, một loại thọ hỉ và một loại thọ xả. Trong loại thọ hỉ hay trong loại thọ xả đó có một loại là sái quấy và một loại không sái quấy.
Loại sái quấy được gọi là tâm tham thọ hỉ hợp tà.
Loại không sái quấy được gọi tâm tham thọ hỉ ly tà.
Bây giờ trong một cụm "hợp tà" lại có hai cách. Một cách là tự nó khởi lên gọi là "vô trợ". Thí dụ, một đứa bé đi học về đang đói bụng vào nhà nhìn thấy trên bàn có mâm cơm để sẵn, nó hoan hỉ thích thú ăn liền. Tức là loại tâm tham không có tà kiến có hai loại, nó tự khởi lên.
Hoặc giả, vào thời Đức Phật có những chủ thuyết gọi là đoạn diệt cho là chết là hết, cho nên có những người theo chủ thuyết này nghĩ rằng chết là hết mà sống thì cần phải tận dụng mọi cơ hội tối đa và, khi thấy người ta để những vật dụng hơ hỏng thì trộm cắp rồi cho rằng không có tội, hễ thấy là lấy ngay, khi thấy mà lấy ngay đó chính tâm tham vô trợ và, vui thích đó là thọ hỉ và, cho rằng không có tội lỗi gì cả đó là tà kiến. Thì tâm tham thứ nhất như chúng ta thấy, tâm tham thọ hỉ hợp tà vô trợ nó vừa đi chung với tà kiến nó vừa đi chung với trạng thái vui thích thú, đồng thời hễ thấy là khởi lên không có sự trợ giúp nào cả, đó là vô trợ.
Loại tâm tham thứ hai cũng là thọ hỉ, cũng là dính mắc, cũng có sự thấy sai hiểu sai nhưng phải có người xúi dục, ví dụ, với một người theo thuyết đoạn diệt, người đó chưa khởi tâm tham, tức là trước đây người này cũng theo chủ thuyết đó cho nên thọ hưởng dục lạc, không có gì sai quấy, và người đó chưa khởi tâm tham, chưa có ý nghĩ sai quấy, một người bạn đi tới nói rằng: "Này bạn, ở nhà kia tài sản nhiều lắm, ông chủ hơ hểnh lắm không canh gác gì hết chúng ta đi tới đó lấy những báu vật về thì mình đi lấy về đâu có gì tội lỗi", người này nghe, giai đoạn đầu chưa tham, nhưng khi nghe nói vậy phát sanh tham, trường hợp này được gọi là tâm tham thọ hỉ hợp tà hữu trợ.
Bây giờ chúng ta qua loại tâm tham thọ hỉ ly tà vô trợ, tức là không có gì sái quấy hết nhưng vô trợ, chúng tôi vừa thí dụ giống như đứa bé đi học về đói bụng nhìn thấy trên bàn có mâm cơm ngon nó thích thú ngồi xuống ăn, đó là tâm tham thọ hỉ ly tà vô trợ,
Còn tâm tham thọ hỉ ly tà hữu trợ như thế nào, một người chưa có tâm tham, người này cũng biết nhân quả, nhưng gia cảnh đang túng quẩn chưa biết xoay sở ra sao, tình cờ có người bạn đi tới chỉ một cách là, "ở trong cái miếu đó có những vật qúi báu, anh đến lấy đi rồi sau này anh làm ăn có tiền thì trả lại", người này nghe hợp lý, giờ mình tạm mượn những vật qui báu ở trong miếu đem bán sau này có tiền mình trả lại. Người này cũng biết là tội lỗi, nhưng giờ túng quẩn quá nên phải chịu, và người đó trước đây không nghĩ tới chuyện này nhưng có người bạn xúi dục nên làm, trường hợp này gọi là tâm tham thọ hỉ ly tà hữu trợ.
Tương tự như vậy với tâm tham thọ xả.
Như vậy, nhóm tâm tham này chúng ta thấy được phân tích ra làm hai cách một là thọ hỉ và một là thọ xả. Trong thọ hỉ thì có hợp với tà kiến và không có tà kiến. Rồi trong nhóm hợp với tà kiến có hữu trợ và vô trợ không hợp với tà kiến cũng có hữu trợ và vô trợ như vậy tổng cộng về nhóm thọ hỉ này có 4 tâm.
Tương tự như vậy thì nhóm thọ xả kia cũng có 4 tâm.
Chúng ta sẽ biết như vậy:
- Tâm tham thứ nhất là thọ hỉ hợp tà vô trợ.
- Tâm tham thứ hai là thọ hỉ hợp tà hữu trợ.
- Tâm tham thứ ba là thọ hỉ ly tà vô trợ.
- Tâm tham thứ tư là thọ hỉ ly tà hữu trợ.
Thế là chúng ta đã điểm qua thọ hỉ.
Bây giờ chúng ta điểm qua thọ xả, cũng tương tự như vậy:
- Tâm tham thọ xả hợp tà vô trợ.
- Tâm tham thọ xả hợp tà hữu trợ.
- Tâm tham thọ xả ly tà vô trợ.
- Tâm tham thọ xả ly tà hữu trợ.
Như vậy tổng cộng có 8 tâm tham.
Mặc dù có 8 tâm tham như , nhưng xin thưa, hàng ngày chúng ta bị nó chi phối rất nhiều và, từng bước mà chúng ta khi am tường rồi sẽ thấy từng giây phút một, chúng ta sẽ thấy trong một ngày chúng ta khởi lên tâm tham rất nhiều.
Trong 2 loại tâm tham này, một loại tâm tham thọ hỉ cho quả nặng hơn là tâm tham thọ xả.
Trong 2 loại tâm tham một loại tâm tham hợp với tà kiến cho quả nặng hơn là tâm tham không hợp với tà kiến.
Trong loại tâm tham hợp với tà kiến hay không hợp với tà kiến thì tâm tham vô trợ cho quả nặng hơn tâm tham hữu trợ.
Chúng ta nắm lấy những cái cách cho quả của nó.
Chúng tôi lập lại:
- Trong tâm tham loại tâm thọ hỉ cho quả nặng hơn loại tâm thọ xả,
- Trong loại tâm thọ hỉ hay trong loại tâm thọ xả loại tâm đi chung với tà kiến cho quả nặng hơn loại tâm không đi chung với tà kiến.
- Trong nhóm tâm đi chung với tà kiến hay nhóm tâm tham không đi chung với tà kiến thì tâm tham vô trợ cho quả nặng hơn tâm tham hữu trợ (chúng ta có mô thức đó)
Cho nên sống trên đời này những người phàm nhân như chúng ta chưa có thể gạt trừ đi mọi ô nhiễm của tham thì, cố gắng làm thế nào là có tâm tham nhưng tâm tham đó phải là tâm tham ly tà, đừng có đi chung với tà kiến, đừng cho là làm việc này không có tội.
Đức Phật Ngài dạy chúng ta: thân có ba việc làm ác, ngữ có 4 việc làm ác, ý có 3 việc làm ác.
Thí dụ, về ngữ chẳng hạn, Đức Phật Ngài dạy là đừng nói dối, đừng nói ác, đừng nói chia rẽ, đừng nói vô ích. Nhưng có người nói: "tôi nói chuyện trên trời dưới đất không làm hại ai thì đâu có tội" xin thưa, đó cũng là tà kiến. Đức Phật Ngài nói đó là một ngữ ác mà chúng ta cho là không có tội, đó là một sự sai lầm, đó là một sự hiểu sai, cho nên nếu có nói vô ích cũng hiểu là ta có tội, bàn những chuyện không mang tới lợi ích thì cũng hiểu rằng là ta đang nói lời nói vô ích, mà vô ích này là có tội.
Cũng giống như có người nói: "tôi nói dối mà không có làm hại ai thì không có tội", xin thưa, đã nói dối thì phải có tội, còn chuyện làm hại người khác là hậu quả của sự nói dối đó, bây giờ mình nói dối người khác dù mình không làm hại ai thì sau này cái quả mình nhận lại cũng bị người khác nói dối lại, tuy không bị tai hại.
Lời nói vô ích Đức Phật gọi là ác ngữ, mình hành thiền mà nói vô ích, tâm lao chao, tâm bấn loạn, tâm tán loạn, xuất hiện sự phóng dật khiến cho mình ngồi không yên, đề mục thiền chạy đi đâu cái không phải đề mục thiền thì nó chạy tới do ảnh hưởng của lời nói vô ích, cái lời lợi ích thì không nói mà nói lời không lợi ích.
Cho nên trong đời này chúng ta còn là phàm nhân thì vẫn còn tâm tham, nhưng khi rơi vào thân ác hạnh, ngữ ác hạnh, chúng ta phải nhận thức rằng như vậy có tội để hiện lộ tâm tham mà tâm tham ly tà cái quả nhẹ hơn tâm tham tà kiến. Lại nữa khi dính mắc điều gì đó tâm hân hoan thích thú thì đình chỉ lại, đừng có vui vội.
Cái loại tâm tham này bấy giờ chúng ta biết cảnh hiển lộ ra trước tiên là; sắc, thinh, hương, vị, xúc, hấp dẫn tâm tham, tâm tham hiển lộ ra liền, còn những pháp khả lạc, khả ái, nó chìm ẩn bên trong khó thấy hơn, khi gặp, sắc, thinh, hương, vị, xúc, định tỉnh lại đừng hoan hỉ, mình biết đó là tâm tham, mà tâm tham thọ hỉ thì quả nặng hơn tâm tham thọ xả.
Nói cách khác dễ hiểu hơn, tâm tham ly tà thọ xả hữu trợ thì quả nhẹ nhất so với 7 tâm tham kia.
Kết luận.
Cho nên, chúng ta hiểu biết rồi thì khi gặp; sắc, thinh, hương, vị, xúc, hãy chú ý, khoan vui, mà nhận xét đây là tâm tham gì, tội nặng hay nhẹ, mình làm cho tâm mình bình thản trở lại. Chúng tôi thí dụ, khi đói bụng người ta đem vật thực đến mình vui, thì người học Phật là biết tâm vui là tâm tham thọ hỉ, mình ghi nhận, nhắc nhở mình là thản nhiên không vui, không dính mắc và, nếu có dính mắc thì là tâm tham thọ xả ly tà.
Chúng ta ứng dụng như vậy trong đời sống chúng ta.
Trong 8 loại tâm tham thì tâm tham thọ xả không hợp với tà kiến và hữu trợ thì cho quả nhẹ nhất so với tất cả các tâm tham kia, thì chúng ta nếu phải tham thì chọn, dần dần một lúc nào đó chúng ta thấy mình có tiến triển, tâm chúng ta dần dần sẽ lạnh nhạt đối với sắc thinh hương vị xúc nghĩa là thản nhiên đối với sắc thinh hương vị xúc, có khen cũng vậy, không khen cũng vậy, có khen cũng là tôi, không khen cũng là tôi, tâm mình bắt đầu thanh thản.
Mọi sự copy, phát tán, in ấn nếu không được sự đồng ý của Minh Hạnh là bất hợp pháp, là phạm Giới lấy của không cho. Vv..
Đến đây dứt phần tâm tham, tiếp theo sẽ là tâm sân, và tâm si./.
No comments:
Post a Comment