Thắng Pháp Abhidhamma -
Bài 2 - Bốn Pháp Siêu Lý
Minh Hạnh ghi chép các bài giảng về Vi Diệu Pháp của nhiều giảng sư với mục đích học hỏi về Tạng Thắng Pháp, xin được chia sẽ với những ai muốn tìm hiểu môn này.
Bài học hôm nay là bài 2, Bốn Pháp Siêu Lý. Được nghe từ băng giảng của HT Chánh Minh và tóm tắt theo sự hiểu biết của chính mình, Minh Hạnh xin chia sẻ.
***
Hôm nay chúng ta học bài 2 của môn Vi Diệu Pháp, tựa đề là Bốn Pháp Siêu Lý.
Các giáo thọ sư đã dạy rằng; Đức Phật Ngài thuyết pháp trong thế gian này, Ngài đưa vào 2 sự thật: một là sự thật thông thường hay là sự thật của thế gian, hai là sự thật tột cùng. Sự thật tột cùng đó được gọi là Parāmaṭṭha hay là Siêu Lý.
Chữ Parāmaṭṭha là từ chữ parāma nghĩa là cao tột.
Chữ aṭṭha nghĩa là điều đó.
Thì chữ Parāmaṭṭha là điều mà tận cùng, cho nên còn được gọi là "Siêu Lý" hoặc "đệ nhất nghĩa đế" hay là "sự thật tột cùng".
Vì sao Đức Phật Ngài xử dụng đến "sự thật của thế gian", bởi vì nếu như không có những "sự thật của thế gian" thì sẽ không đi đến "sự thật tột cùng".
"Sự thật thế gian" thường thường người ta định danh là vật này, vật nọ, hoặc là những ngôn ngữ. Nếu không xử dụng ngôn ngữ thì không thể trình bày được "sự thật tột cùng", cho nên người có trí sẽ hiểu ngay đâu là "sự thật của thế gian" và đâu là "sự thật tột cùng", từ những "sự thật thế gian" mới dẫn dắt tới "sự thật tột cùng".
Trong sự hoằng pháp của Đức Thế Tôn, Ngài chỉ nói 2 sự thật này, ngoài ra không có cái sự thật thứ 3.
Thí dụ, Đức Phật Ngài dạy về; đi, đứng, nằm, ngồi. Thì, đi, đứng, nằm, ngồi, là một "sự thật của thế gian", điều này có thật, rồi từ, đi, đứng, nằm, ngồi, Đức Phật Ngài mới dẫn dắt tới chỉ có những động tác và, những động tác đó được điều xử bởi một năng lực vô hình, hay còn gọi là năng lực trừu tượng, để cho người có trí hiểu biết rằng sự; đi, đứng, nằm, ngồi, đó, được điều khiển bởi một pháp trừu tượng và, người hiểu được pháp trừu tượng đó thì người đó mới triển khai trí của mình.
Cho nên chữ Parāmaṭṭha (Siêu Lý) này, các Ngài giải thích rằng:
- Điểm thứ nhất là chủ của chế định, là chủ của định đặt.
- Điểm thứ hai đó là cảnh của tuệ cao.
- Điểm thứ ba là, không hề có sự thay đổi. Tức là pháp nào thuộc về dạng Parāmaṭṭha (Siêu Lý) thì pháp đó không hề thay đổi và, nó là chủ của sự định đặt ra.
Thí dụ, danh từ "ngũ uẩn" mà chúng ta thường biết là, sắc, thọ, tưởng, hành, thức, thì từ 5 nhóm này người ta định ra danh từ "ngũ uẩn".
Từ mảnh gỗ người ta, đóng, bào, cưa, cắt, để đóng thành một cái gì đó người ta định danh cái đó là cái bàn, hoặc đóng để thành một nơi để ngồi người ta gọi là cái ghế, đóng thành một vật nổi trên mặt nước người ta gọi là cái thuyền v.v... từ một cục đất người ta nắn thành một vật chứa nước gọi là cái chum, cái vại, cũng từ đất người ta tạo ra những vật để xây dựng người ta định danh là cục gạch v.v...
Cho nên, cái gọi là Parāmaṭṭha (Siêu Lý) là sự thật tột cùng, nó là chủ của sự định đặt, thứ hai nữa là nó không hề thay đổi.
Như chúng ta nói ngũ uẩn; sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cho dù ngũ uẩn này có xuất hiện ở cảnh giới địa ngục chúng sanh được định đặt là ngã qủi thì, cái ngũ uẩn này cũng không hề thay đổi, bản chất của nó không hề thay đổi cho dù ngũ uẩn này xuất hiện ở cõi dục giới và chúng ta định danh là chư thiên thì ngũ uẩn này cũng không thay đổi. Sắc tức là sắc, thọ tức là thọ, tưởng tức là tưởng và hành thức tức là hành thức, nó như vậy, nó không hề biến ra dạng khác, nó luôn luôn như vậy.
Và, điểm thứ ba của chữ Parāmaṭṭha - Siêu Lý còn có ý nghĩa là cảnh của trí tuệ cao, phải nhận thức nó bằng trí tuệ, chứ không phải nhận thức bằng giác quan, không phải nhận thức theo nghĩa thông thường.
Ví dụ, chúng ta nói thọ khổ, thọ lạc, hay là thọ không khổ không lạc.
Ở trong đời sống này, có những lúc vui thì chúng ta định danh là thọ hỉ hay là thọ lạc. Những lúc chúng ta buồn sầu khổ thì định danh của nó là thọ khổ hay thọ ưu. Hay có những trạng thái thản nhiên, không vui, không buồn, chúng ta định danh nó là thọ xả. Thì những trạng thái này dù cho ở cõi địa ngục, hay ở cõi súc sanh, hay ở cõi chư thiên, hay cõi nhân loại thì cũng không thay đổi, những trạng thái đó không hề thay đổi, nó cứ là như vậy, cho nên nó bất biến, bất biến ở đây không có nghĩa là thường trụ, nó không phải là luôn luôn đứng vững như vậy, nó không thay đổi bản chất của nó thôi.
Rồi, cảnh của tuệ cao muốn nhận thức được nó đòi hỏi cái trí để phân biệt đây là thọ khổ, đây là thọ lạc, đây là thọ xả và, từ những sự thật thường tình ở trong đời, Đức Phật Ngài dẫn dắt cho những người có duyên lành đạo quả phát sanh trí tuệ để nhận thức đến một sự tột cùng của tâm đó.
Chúng tôi lấy ví dụ thứ 2 dễ hiểu hơn, thí dụ như hơi thở, chúng ta định danh là hơi thở bởi vì nó đi vào đi ra ở trong thân thể của mình. Đức Phật Ngài dạy chúng ta là niệm hơi thở, nhưng mà từ đó một thời gian quen dần thì chúng ta mới thấy rằng nó không phải là hơi thở mà nó là một chất lay động, nó là một chất di chuyển, chất di chuyển này nó luôn luôn trôi chảy, rồi sự trôi chảy của nó từng khoản từng khoản, cái trí này mới nhận thấy rằng cái mà gọi là hơi thở nó sinh rồi diệt, nó diệt rồi sinh, diệt rồi sanh người đó mới thấy cái "sự thật tột cùng".
Đức Phật Ngài thuyết giảng có 2 sự thật; một sự thật của thế gian, rồi Ngài dẫn dắt tới sự thật tột cùng và, sự thật tột cùng này có 3 ý nghĩa như vậy; thứ nhất là chủ của sự định đặt, thứ hai nó là cảnh của trí tuệ cao, thứ ba là nó y nguyên như vậy không thay đổi.
Một thí dụ khác dễ hiểu, qúi vị là người VN quen thuộc được ngôn từ VN, dù cho qúi vị sang nước Thái ai nói tiếng VN qúi vị cũng hiểu, rồi qúi vị sang nước Mỹ ai nói tiếng VN qúi vị cũng hiểu thì, tiếng VN này không hề bị thay đổi bản chất cho dù nó trôi dạt ở khắp nơi trên quả địa cầu thì, ý nghĩa chữ Parāmaṭṭha - Siêu Lý là như vậy, nó không bao giờ thay đổi.
Và xin thưa rằng; nói tới Thắng Pháp Abhidhamma thì đề cập tới 4 pháp thuộc lãnh vực xem như là trừu tượng, đòi hỏi chúng ta phải dùng trí tuệ để nhận biết nó.
Bốn pháp siêu lý nói gì?
- Trước nhất là tâm,
- Thứ hai là tâm sở,
- Thứ ba là sắc pháp,
- Thứ tư là Niết-bàn.
Và xin thưa, tất cả những danh từ chúng tôi vừa liệt kê: tâm, tâm sở, sắc pháp, Niết-bàn, tất cả những danh từ đó là định đặt để tỏ bày với nhau, chưa nói lên ý nghĩa gì về Parāmaṭṭha - Siêu Lý cả.
Nói về chữ tâm (citta).
Citta từ ngữ căn là "ci" là hiểu biết, hay là suy tư, hay là suy ngẫm. Nó hiểu biết cái gì, nó hiểu biết cảnh, tức là nó hiểu biết đối tượng, cảnh là đối tượng, nó hiểu biết đối tượng.
Qúi vị nghe Phật ngôn "ta là nơi nương của ta" bởi vì hiểu rằng cái đối tượng "ta là nơi nương của ta" được hiểu biết, thì sự hiểu biết đó là tâm.
Nhưng ngược lại, từ cái hiểu đó qúi vị mới suy tư tại sao "ta là nơi nương của ta", cái gì là nơi nương của ta. Qúi vị mới thấy rằng, cái ta chỉ cho ngũ uẩn, cái gì là nơi nương của ngũ uẩn, đó chính là pháp thiện, pháp thiện là nơi nương của ngũ uẩn. Thì giai đoạn đầu tiên để chỉ hiểu biết rằng cái đối tượng đây "ta là nơi nương của ta" nhưng nó dẫn tới sự suy tư suy ngẫm cái pháp thiện là nơi nương của ngũ uẩn, nếu ngũ uẩn nào không có pháp thiện thì nó trở nên tồi tệ, trở nên xấu xí, nó trở nên thô kệch. Trái lại là ngũ uẩn nào có pháp thiện thì ngũ uẩn đó xinh đẹp, ngũ uẩn đó được an lạc, ngũ uẩn đó được khỏe mạnh, được tươi đẹp thì, chính sự suy tư suy ngẫm đó nó cũng là sự thật.
Cho nên nói về tâm, chúng ta sẽ có định nghĩa đơn giản nhất để chúng ta hiểu, tức là hiểu biết đối tượng, thứ hai là suy ngẫm đối tượng.
Thí dụ, chúng ta thấy một người mới vừa có mặt đó đã mất đi, thì người mới vừa có mặt đó mất đi, chúng ta hiểu biết như vậy, rồi chúng ta mới suy ngẫm mới triển khai chỗ đó, thì bấy giờ mới thấy rằng; àh, vậy thì cái sự có rồi mất đó, cái trí hiểu biết đó định danh được, biết được cái tướng vô thường, chẳng hạn là như vậy.
Nếu như lấy từ ngữ căn "ci" tức là suy tư suy ngẫm không, chúng ta sẽ gặp một vấn đề là trong khi chúng ta đi ngủ, chúng ta không suy tư, không suy ngẫm, vậy thì lúc đó không có tâm sao?
Lúc đó vẫn có tâm, nếu như định nghĩa đầu tiên, tâm là sự biết cảnh thì, trong khi ngủ tâm vẫn suôi chảy như vậy, vẫn nhận thức được cảnh, đang ngủ có người lay động, mình giật mình, đang ngủ một tiếng động giật mình thức dậy, biết được tiếng động. Hoặc giả trong giấc ngủ đó nảy sinh ra những giấc chiêm bao mình không biết, nhưng chính những giấc chiêm bao đó đã xác định rằng trong khi ngủ vẫn có tâm, mà tâm này chỉ biết cảnh chứ nó không có trạng thái suy tư, không có trạng thái suy ngẫm, khi tỉnh dậy nhớ lại giấc mộng bắt đầu suy ngẫm, điềm lành, hay điềm dữ, điềm không tốt đẹp v.v...
Cho nên khi nói tới tâm, chúng ta sẽ có 2 định nghĩa:
- Định nghĩa thứ nhất bao quán tất cả tức là có trạng thái phổ thông, tâm là sự biết cảnh.
- Định nghĩa thứ hai có nét khác biệt hơn, đó là sự suy tư đối với đối tượng đó.
Tâm sở là gì?
Tâm có từ ngữ là citta. Tâm sở có từ ngữ khác là cetasika. Ở đây chữ sika + ceta. Chữ ceta là biến thể của chữ citta là tâm, chữ ika là của tâm, được dịch là chữ sở nghĩa là thuộc về, nó thuộc về tâm nên gọi là cetasika.
Chúng tôi lập lại cetasika, thì chữ ceta biến thể của chữ citta, và chữ s là chữ đệm, ika là của, như vậy thì cetasika nghĩa là của tâm hay thuộc về tâm, nên được dịch là tâm sở.
Chúng ta chỉ quen biết với tâm mà lơ là với tâm sở, thực tế thì tâm sở này vô cùng quan trọng.
Tâm chỉ đơn giản là biết cảnh và suy tư về cảnh đó thôi, nhưng hoạt động thì không hoạt động mà, chính những tâm sở này hoạt động. Tâm sở này cực kỳ quan trọng. Trong đời sống chúng ta quen định danh, tâm tham, tâm sân, tâm si, hay là, tâm thiện, tâm có niềm tin, tín tâm nơi tam bảo v.v... Nhưng, thực tế đơn giản tâm chỉ biết cảnh thôi, còn làm việc là tâm sở.
Bởi vì tâm có tâm sở tham đi chung nên người ta mới định đặt nó là tâm tham.
Còn nếu như tâm có tâm sở sân đi chung thì định đặt nó là tâm sân.
Tâm làm việc tốt đẹp là nhờ có các tâm sở tốt đẹp, gọi là tâm thiện v.v...
Như vậy chúng ta mới thấy tâm sở rất quan trọng, tâm đơn thuần chỉ là tâm thôi, chỉ biết cảnh thôi.
Các Ngài đưa một thí dụ, nước lã chỉ là nước mà thôi, nhưng khi pha với cafe thì nó mang tên là nước cafe, khi pha với trà nó mang tên nước trà, khi pha với muối thì nó mang tên nước muối, khi pha với đường thì mang tên nước đường.
Thì xin thưa rằng: trà, cafe, đường, muối v.v... cái đó cũng giống như tâm sở, nương theo tâm sở mới định danh loại tâm đó, mặc dù nó là phụ thuộc, nó thuộc về tâm, nhưng nó lại rất quan trọng.
Các Ngài đưa ra một thí dụ thứ hai, tâm ví như vua, cho nên có một số sách Thắng Pháp gọi tâm là tâm vương là ông vua. Ông vua có thể biết đất nước mình như thế nào, ông vua có thể suy tư đất nước mình như thế nào và vua sẽ ra lệnh phải làm cái này phải làm cái kia nhưng bản thân ông vua không làm mà các quan làm. Thí dụ như vua Tịnh Phạn nghĩ rằng phải đào một hồ sen cho Bồ Tát, vua không đào mà những người lính, những ông quan lo xây cất thực hiện theo lệnh vua. Ông quan làm hồ sen tốt thì hồ sen đó mới đẹp, ông quan vụng về làm hồ sen xấu thì hồ sen đó không ra gì. Đức vua Tịnh Phạn Vương bảo xây dựng cho Thái Tử 3 toà lâu đài, mùa mưa, mùa nắng, mùa khô, vua chỉ nói vậy thôi, nhưng, kẻ xây cho Bồ Tát 3 toà lâu đài người đó mới là quan trọng, tài nghệ của những người đó như thế nào để có kiến trúc vững chắc xinh đẹp là do những tay thợ, vua Tịnh Phạn Vương không biết,
Thí dụ này như thế nào, cũng vậy là, tâm chỉ biết cảnh và nó suy tư ra thôi, còn phận sự tạo tác, phận sự kiến thiết là do tâm sở, tâm sở rất quan trọng.
Chúng ta thấy trong kinh Tạng ghi một vị chứng đắc sơ thiền gồm có 5 chi; tầm, tứ, hỉ, lạc, định, trong đó không có chữ tâm ở trong đó, tầm, tứ, hỉ, lạc, định, ở trong kinh Tạng là muốn chỉ cho tâm sở, phụ thuộc vào nó. Tuy rằng quan cận thần rất quan trọng, phái đoàn sứ thần nước ngoài tới, Đức Vua biết phái đoàn sứ thần nước ngoài tới và bảo hãy làm lễ tiếp đón phái đoàn sứ thần của nước bạn, vua chỉ nói thôi, vua không làm, vị lễ bộ Thượng Thư sẽ làm, làm cho buổi lễ nghiêm trang long trọng được tốt đẹp được hoàn mỹ đó là tài nghệ của lễ bộ Thượng Thư, còn làm hời hợt qua loa làm mất sĩ diện đất nước cũng do ông lễ bộ Thượng Thư làm dở, chẳng hạn như vậy.
Bây giờ chúng ta hiểu được ý nghĩa của tâm sở. Chúng tôi nói qúi vị rằng; tâm không quan trọng mà tâm sở mới cực kỳ quan trọng, nó đặc biệt vô cùng, cho nên tạng Thắng Pháp đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu, phải hiểu phải nắm bắt rất rành về những trạng thái của tâm sở, bởi con đường giải thoát từ tâm sở mà ra, tâm chỉ ra lệnh. Thí dụ chúng ta thấy Bát Chánh Đạo có; chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định, không có chữ tâm trong đó. Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định, toàn bộ là tâm sở, là phụ thuộc của tâm, chính nhóm tám này từ chánh kiến cho đến chánh định mới dẫn tâm đi tới Niết-bàn, chứ tâm không làm, tâm chỉ là nước vô thưởng vô phạt, cho muối thì mặn, cho đường vào thì ngọt, nếu cho mùi hương vào thì nước đó trở thành nước hoa. Cho nên qúi vị mà nắm bắt được cái này rồi thì qúi vị sẽ xem tâm không là gì hết.
Bây giờ chúng ta trở lại câu kệ Pháp Cú thứ nhất và câu thứ hai:
- Ý dẫn đầu các pháp, Ý làm chủ, ý tạo. Nếu nói hay làm với ý ác, thì quả khổ sẽ theo sau như bánh xe lăn theo chân vật kéo
- Ý dẫn đầu các pháp, Ý làm chủ, ý tạo. Nếu nói hay làm với ý thiện, thì hạnh phúc sẽ theo sau, như bóng, không rời hình.
Đó là hai câu kệ Pháp Cú, như vậy, các Ngài dạy rằng; ý chính là tâm, các pháp là tâm sở, ý dẫn đầu đi trước giống như đức vua đi trước, đi phía sau là đoàn tùy tùng hộ vệ và những quan đi theo sau, vua đi trước chỉ biết quan sát cảnh, chỉ biết cảnh là đẹp, còn phận sự giữ gìn an toàn cho đức vua đi một cách tốt đẹp, đó là những tâm sở.
Chúng ta trở lại để qúi vị thấy rằng như chúng tôi nói tâm chỉ biết cảnh thôi, qúi vị nghe câu thứ nhất "Ý dẫn đầu các pháp, Ý làm chủ, ý tạo. Nếu nói hay làm với ý ác, thì quả khổ sẽ theo sau như bánh xe lăn theo chân vật kéo"
Câu kệ thứ hai khi đọc sẽ thấy là tâm biết cảnh: "Ý dẫn đầu các pháp, Ý làm chủ, ý tạo. Nếu nói hay làm với ý thiện, thì hạnh phúc sẽ theo sau, như bóng, không rời hình".
Hai câu kệ này giống nhau, chỉ khác nhau ở lãnh vực là thiện và bất thiện. Bất thiện thì quả khổ, thiện thì quả hạnh phúc, sự đó được gọi là hiểu là biết.
Nhưng, qúi vị có suy tư có suy ngẫm chưa, nếu qúi vị chịu suy ngẫm thêm thì mô hình nó đồng dạng với nhau, cái quả khổ sẽ đi theo sát bên như bánh xe lăn theo chân con vật và, hạnh phúc theo sát bên như bóng không rời hình.
Nhưng, tới đây nếu chịu suy ngẫm chịu suy tư mới thấy.
Cái hình ảnh con vật phải lôi chiếc xe theo chân mình, bánh xe lăn theo chân con vật, đôi khi bánh xe chạm vào chân con vật khiến con vật đau nhức nhối, nó không được thoải mái nặng nề vô cùng.
Con vật mà lôi bánh xe đi như vậy, bánh xe cứ lăn theo các quả, vẫn đi theo con bò giống như ngũ uẩn. Bánh xe giống như quả khổ đi theo một cách đau khổ khó chịu mệt nhọc,
Còn bóng không rời hình, bóng giống như quả an lạc, hình cũng giống như ngũ uẩn. Bóng không rời hình, cũng đi theo sát kế bên, nhưng người đó nhẹ nhàng thoải mái, không có vướng bận, không có phải oằn oại đau khổ.
Chỗ này là chỗ suy tư suy ngẫm, có suy ngẫm chúng ta mới thấy Đức Phật Ngài dùng hình ảnh đó rất là tuyệt vời; người làm ác, người làm bất thiện thì cái quả đi sát theo ngũ uẩn này nhưng là đau khổ, còn người làm thiện thì quả thiện cũng đi theo sát bên nhưng lại nhẹ nhàng an lạc, bởi nó chỉ là cái bóng chứ không phải là bánh xe, lúc đó nó gọi là suy tư, nó cũng là tâm, nói vậy là qúi vị thấy tâm sở quan trọng, "ý dẫn đầu các pháp", các pháp ở đây chỉ cho tâm sở.
Pháp Siêu Lý thứ ba:
Đó là sắc pháp, tiếng Pali gọi là Rūpa.
Rūpa từ ngữ căn là rupa hay là rup có nghĩa là bị vỡ ra, bị hất ra. Tâm với tâm sở mặc dù cũng sinh sinh diệt diệt nhưng không ai có thế tách tâm ra khỏi tâm sở. Cũng giống như nước trong canh, chất nước đó hoà lẫn với các vị chất vừa ngọt vừa cay vừa thơm vừa béo v.v.... hoà chung nhau, tách ra khó khăn. Nhưng cái ly đập bể, cục gạch chặt bể, cái bàn chặt bể, tách ra, lià ra được, còn tâm và tâm sở không lìa ra được.
Cái gì bị chẻ ra, bị tách ra, bị vỡ tan, cái đó được gọi là sắc pháp.
Cái gì không bị tách lìa ra được, gọi là tâm pháp.
Tâm có thể sinh diệt nhưng tách tâm sở ra khỏi tâm không được. Cũng như các vị chất người ta hoà vào nước rồi, không có thể tách ra được, tách đường ra riêng, muối ra riêng, cay ra riêng, chất thơm ra riêng, không tách ra được, nhưng cái bàn có thể tách ra được, cục đá có thể đập vỡ ra được, cái gì có thể nghiền nát tách ra được thì gọi là sắc pháp.
Nói một cách dễ hiểu hơn, sắc pháp là thể vật chất, còn tâm pháp hay danh pháp là thể tinh thần, tinh thần không thể tách ra được, mà chỉ có thể chú ý nó chứ không thể tách ra được.
Cũng giống như là bức tranh của nhà hoạ sĩ đã vẽ lên rồi, những nét vẽ, những màu sắc trộn lẫn với nhau bây giờ tách ra không được, chỉ có thể chú ý được nét vẽ, nhạt, đậm, tươi mát, nét vẽ bay bướm, nét vẽ khô cằn v.v... chứ tách ra không được. Không thể tách nét vẽ ra khỏi bức tranh được, nhưng bức tranh có thể xé được, vò được, cắt được thì bức tranh đó cũng ví như là sắc pháp, còn nét vẽ trên bức tranh đó, những màu sắc trên bức tranh đó ví như tâm, không tách ra được. Cho nên khi nói tâm, tâm sở thì người ta hiểu đó là những gì không thể tách ra được, khi nói sắc pháp thì nói đến những cái gì có thể bị phá vỡ, đó là chúng tôi nói về sắc pháp.
Pháp thứ tư là Niết-bàn
Chữ Nibbàna là Niết-bàn. Pháp Siêu Lý có 4 pháp là; tâm, tâm sở, sắp pháp và Niết-bàn.
Niết-bàn là gì?
Trước tiên chúng ta từ cái từ chữ Nibbàna hay Nirvāṇa, khi mà lắng lòng nhìn lại dịch là Niết-bàn, không phải là sai, đó là thói quen, nhưng nếu âm Pali thì Nibbàna, nếu âm phải là Níp-bàn, chữ Nibbàna mà mình âm là Niết-bàn thì không đúng, mặc dù chúng ta hiểu. Nhưng cho dù đọc âm nào thì những từ âm đó không có nghĩa, chúng ta phải lấy nguyên gốc của từ thì mới giải nghĩa được..
Bên Bắc Truyền dùng chữ Nirvāṇa, chữ Nir là không + vāṇa là dệt là kết
Còn chữ Nibbàna, từ chữ Ni là không + bbàna là dệt, là kết
Tức là không có dệt. Nirvāṇa hay Nibbàna là, không có dệt, dệt cái gì ở trong luân hồi, nó không dính mắc tới cái gì thuộc về thế gian, cái gì mà nó không còn vướng mắc tới thế gian thì cái đó được gọi là Nibbàna hay Nirvāṇa.
Nói cách khác, cái gì không còn vướng vít tới thế gian, không còn bị thế gian kết nó lại, giữ nó lại thì cái đó gọi là Niết-bàn.
Nếu hiểu rộng, suy tư rộng hơn, hay là, nói về nghĩa đen, nói rộng hơn thì chữ vāṇa biểu tượng cho ái dục, biểu tượng cho ái. Trạng thái nào không còn dính mắc tới cái ái, nó không bị cái ái len nằm trong đó thì, cái đó là Niết-bàn.
Ái có hai trạng thái; một là hiển lộ phơi bày ra, một ẩn phía bên trong.
- Ái ẩn phía bên trong giống như con sâu nằm ẩn trong bông hoa. Như một người làm thiện, bố thí, trì giới, tu tập thiền, ao ước kiếp sau mình sẽ được, như vầy, như vầy thì, xin thưa rằng; cái ái đó ẩn trong đó giống như con sâu nằm trong cánh bông, nó không lộ ra mà nó có trong đó.
- Ái hiện lộ là, thấy sắc đẹp thì thích, thấy âm thanh khen ngợi thì vui mừng, chẳng hạn như vậy, nó lộ ra.
Nirvāṇa hoặc Nibbàna nghĩa là không còn bị bất kỳ hình thức nào của ái xâm chiếm vào.
Đức Phật Ngài định nghĩa trong Tương Ưng Kinh: "Này Tỳ Khưu, thế nào là Niết-bàn, này chư Tỳ Khưu Niết-bàn là diệt tận tham, diệt tận sân, diệt tận si",
Chúng ta chỉ hiểu như vậy, rồi dần dần chúng ta sẽ tìm hiểu sâu hơn. Hôm nay chúng ta tìm hiểu chữ Niết-bàn và trạng thái diệt tận tham, diệt tận sân, diệt tận si, và tùy theo mức độ tham sân si.
Tham sân si có 3 đẳng cấp; đẳng cấp thô thiển, đẳng cấp trung bình, và đẳng cấp vi tế.
Tham sân si, đẳng cấp thô thiển, những loại tham sân si mà nó dẫn xuống khổ cảnh thì Niết-bàn lần đầu của một vị chứng đạt Niết-bàn được gọi là bậc dự lưu Tu-đà-hàm thì sát trừ tất cả cái tham sân si tức là không kết dệt với những tham sân si hay là tham dẫn xuống khổ cảnh, không còn kết dệt nữa.
Tham trung bình, tức là Niết-bàn lần thứ ba của bậc Thánh, chúng ta định danh là bậc Thánh Anahàm, nó diệt trừ tham muốn trong cõi dục này không còn bị kết dính trong cõi dục, vì nó không còn tái sanh vào cõi dục nữa nên gọi là bất lai Anahàm, không còn kết lại, không còn kết vào cõi dục này, không dính mắc trong cõi dục này
Niết-bàn thứ tư tức là Thánh Đạo Alahán thì chấm dứt, diệt trừ ái không còn kết dệt ở trong sắc giới vô sắc giới.
Như vậy, chúng ta hiểu nôm na Niết-bàn là trạng thái không còn bị kết dệt bởi ái, tức là sự ham muốn, hay là sự mong mỏi, dù hiển lộ hay chìm ẩn ở trong, hoàn toàn vắng mặt nó.
Nói theo định nghĩa của Đức Phật Niết-bàn là, trạng thái diệt tận tham sân si, không còn tham sân si nữa, như vậy là đủ rồi, về sau nữa chúng ta sẽ tìm hiểu sau.
Như vậy thì Thắng Pháp nói lên cái gì, Thắng Pháp nói lên 2 sự thật; một là sự thật theo đời thường, hai là sự thật tột cùng. Trong sự thật tột cùng đó được đưa lên 4 pháp đó là; tâm, tâm sở, sắc pháp, Niết-bàn.
Ngữ và nghĩa
Ở đây, chúng ta cần lưu ý có những danh từ có vẻ đồng nghĩa nhưng lại có những ý nghĩa khác biệt chứ không phải hoàn toàn giống nhau, mặc dù trên thường thức nó giống nhau, nó hao hao giống nhau nhưng ít ra nó có cái nét khác biệt.
Thí dụ nói về tâm, chúng ta sẽ có có những từ như sau,
- Thứ nhất là citta là tâm,
- Thứ hai chữ mano là ý,
- Thứ ba chữ thức là viññāṇa,
Ba từ này có ý nghĩa giống nhau, mang tính giống nhau và, đồng thời nghĩa khác biệt nhau. Chúng ta không nên nhầm lẫn. Không phải là biết ba từ đó giống nhau rồi chúng ta muốn dùng cách nào thì dùng. Xin thưa, Đức Phật Ngài dùng rất chuẩn, vì Ngài là bậc thiện thuyết. Thí dụ ngay cả câu kệ Pháp Cú đầu tiên.
"Manopubba'ngamaa dhammaa - Ý dẫn đầu các pháp". Ngài không dùng citta tâm dẫn đầu các pháp, mà Ngài dùng chữ mano - ý, Ngài không dùng chữ thức hay tâm dẫn đầu các pháp, Ngài cũng không dùng chữ viññāṇa - thức - thức dẫn đầu các pháp, mà Ngài dùng mano là ý dẫn đầu các pháp.
Tất cả ba từ này có điểm chung là cùng biết cảnh, tâm cũng biết cảnh, ý cũng biết cảnh, thức cũng biết cảnh, đây là cái nét chung.
Nhưng có nét riêng;
Thứ nhất, chữ ý là biết cảnh, nhưng chữ ý này xử lý cảnh, với cảnh đó nó sẽ suy tư xong rồi thì ra lệnh với cảnh này phải làm như vậy, giống như đức vua sau khi biết hoàng cung bị hư hao vì lâu năm, ra lệnh sửa chữa, đó là ý, tức là ý xử lý cảnh, nó biết cảnh đó thì nó sẽ xử lý cảnh đó,
Ông vua biết hoàng cung bị sụp đổ mà làm thinh thì trường hợp này là thức hoặc là tâm. Qúi vị nắm bắt chỗ này, chúng tôi cho ví dụ để qúi vị thấy rõ. Ông vua biết hoàng cung bị sụp đổ nhưng làm thinh thì giống như tâm hay thức. Ông vua biết hoàng cung sụp đổ nhưng ra lệnh sửa chữa thì đó là ý, cho nên ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ ý tạo
Ý ác hay ý thiện thì tính sau, nhưng ý làm chủ ý tạo, ý xử lý cảnh chính nghiệp quả nằm ở chỗ này, nghiệp thiện hay nghiệp bất thiện nằm ở chỗ này, nằm ở trong ý, về sau này qúi vị sẽ thấy chữ ý này nằm trong lộ đổng lực (Javana) từ từ chúng ta đi, bây giờ chúng ta nắm bắt trước một số thông thường.
Chữ tâm cũng là biết cảnh, nhưng biết cảnh gì, biết cảnh như thế nào, nét khác biệt của nó như thế nào. Nói tới ý là nói tới sự tạo tác, nói tới tâm thì nói tới sự đa dạng, bởi vì từ chữ citta + kāra thành chữ họa sĩ làm cho đang dạng, hoặc làm cho sinh đẹp, chữ citta còn có ý nghĩa là sinh đẹp. Trong thời Đức Phật có một vị trưởng giả đệ tử Đức Phật khi mới sinh ra hoa trời rụng xuống ngập tới đầu gối, nhân sự kiện vị trưởng giả đó được đặt tên là trưởng giả Citta, Citta là xinh đẹp. Cái tâm này ngoài biết cảnh ra thì nó biết nhiều chuyện đa dạng, nhiều cảnh đa dạng và nó còn làm nảy bậc lên cho xinh đẹp hoặc là không xinh đẹp. Nghĩa khác biệt của chữ citta so với chữ ý là tạo tác biết cảnh mà tạo tác, còn chữ citta cũng biết cảnh nhưng biết nhiều nhiều đa dạng làm cho đa dạng và làm cho xinh đẹp, cho nên nhà duy thức nói là "vạn pháp duy tâm tạo".
Chữ viññāṇa từ chữ vi + ññāṇa, vi là không có + ññāṇa là trí, thức chỉ biết cảnh đơn thuần không có ý tham dự.
Vi là không có, ññāṇa là trí, tức là trí không hoạt động.
Cũng giống như đứa bé sơ sinh, mới sinh ra nó nhìn cảnh vật nó biết những cảnh vật đó, rồi thôi, nó không phân biệt được là dơ hay là sạch, tốt hay xấu, nó chỉ biết mà thôi, bởi vì nó không có trí.
Thì viññāṇa có nghĩa là thức cũng hiểu biết, nhưng hiểu biết đối tượng mà không có trí trong đó, cũng giống như chúng ta đi đường, chúng ta vẫn nhìn vẫn thấy cây, vẫn thấy đường phố, con đường quen thuộc, hàng ngày chúng ta đi chúng ta vẫn nhìn thấy những cây ở vệ đường, thấy đường phố chúng ta biết nhưng trí lúc đó không can dự. Nếu có trí can dự thì qúi vị sẽ nhận thức rằng con đường hôm nay khác con đường hôm qua, cái cây cổ thụ bên đường này buổi sáng khác buổi chiều, cây này đẹp hay xấu chẳng hạn. Nhưng chúng ta thấy biết cây là cây, biết cây xanh là cây xanh, biết đường phố là đường phố, chúng ta không có trí can dự, trí không hoạt động cho nên đường phố hôm nay như đường phố hôm qua, đường phố hôm qua cũng như đường phố hôm kia, đường phố hôm kia cũng giống như đường phố hôm qua, y nhiên vậy thôi, vì chưa có trí xen vào.
Qúi vị cầm tờ giấy 5 ngàn trên tay, nhìn nó biết nó là 5 ngàn, đó là cái thức nhưng nếu có trí thì cầm tờ giấy 5 ngàn đó nó là mặt trái mặt phải, cái màu của nó nhạt so với màu giấy 5 ngàn mới, nó có nhăn hơn, mà rút tờ giấy ra 5 ngàn biết 5 ngàn, đó là thức, nhưng phân biệt tờ giấy bạc 5 ngàn này đưa ra xem mặt phải mặt trái, cái sự nhận xét đó là có trí can dự trong đó.
Thì 3 từ này mặt dù nó có nét chung là biết cảnh biết đối tượng, nhưng có nét riêng;
- Ý là sự tạo tác để cho quả thiện hay quả bất thiện trong tương lai.
- Tâm là sự biết nhiều cảnh, biết đa dạng,
- Thức là sự biết mà không có trí can dự.
Chẳng những vậy mà các Ngài còn giải thích thức (viññāṇa);
Chữ "vi" là đặc biệt "ññāṇa" là biết, cái biết đặc biệt, cái biết đặc biệt là cái biết này không do tưởng để mà biết, nó không do trí để mà biết, nó chỉ là biết đơn thuần, chứ không phải do tưởng, nó không do nhớ lại mà biết. Giống như người lần đầu nhận được 100 dollars từ một người thân ở hải ngoại gửi về, người đó cầm 100 dollars, biết đây là 100 dollars, cái biết đó không do tưởng, không do nhớ lại là từng có 100 dollars này, bởi vì từ trước tới nay là lần đầu tiên được nhìn thấy 100 dollars này. Có một lần chúng tôi đi du lịch sang Thái đổi tiền Paht của Thái họ đưa chỉ nhìn biết con số của nó thì biết bao nhiêu Paht thôi, không phân biệt, lần đầu tiên như vậy không do tưởng tại vì chưa lần nào nhìn thấy nó chẳng hạn. Cái biết đặc biệt chỉ là biết đơn thuần thôi, không do tưởng nhớ lại, không do trí can dự vô, cho nên "vi" nghĩa là đặc biệt "ññāṇa" là cái biết, cái biết đặc biệt là cái biết không do tưởng nhớ lại không do trí can thiệp vào, cái biết đơn thuần. Cho nên chúng ta cần nhận thức được một số từ để sau này dùng chuẩn mực.
Tóm tắt bài học.
Hôm nay học bốn pháp đi vào sự thật của thế gian để từ đó dẫn tới một trí tuệ cao để nhận thức, bốn pháp siêu lý đó là; tâm, tâm sở, sắc pháp và Niết-bàn.
Tâm là sự biết cảnh hoặc suy tư về cảnh.
Tâm sở là những vật hay là những pháp tùy thuộc vào tâm.
Sắc pháp là những gì nó bị trạng thái tan vỡ, bể vụn.
Niết-bàn là trạng thái không có ái, không kết dệt với ái, nói cách khác Niết-bàn là trạng thái diệt trừ tham sân si
Và chúng ta phân biệt được thế nào là ý, khi nói tới ý là muốn ám chỉ sự tạo tác của tâm, khi nói citta là tâm là sự đa dạng hoặc là xinh đẹp, nói tới thức là muốn nói sự biết cách đơn thuần không có trí tham dự, không có tưởng tham dự.
Mọi sự copy, phát tán, in ấn nếu không được sự đồng ý của Minh Hạnh là bất hợp pháp, là phạm Giới lấy của không cho. Vv..
Đó là bài học hôm nay ./.
No comments:
Post a Comment